Tập quán gây hại còn phổ biến là đốt rơm rạ ngoài trời. Việc đốt rơm rạ giải phóng bụi mịn PM2.5, carbon dioxide (CO₂), methane (CH₄), nitrous oxide (N₂O) cùng nhiều khí nhà kính khác, góp phần gây ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và nhiều bệnh lý hô hấp.
Trong giai đoạn 2022–2025, EPP-VN triển khai năm nhóm hành động chính: Lập bản đồ các điểm nóng về đốt ngoài trời, xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về tác động của việc đốt rơm rạ đối với môi trường và sức khỏe; nghiên cứu, thử nghiệm và thúc đẩy các giải pháp thay thế bền vững; Truyền thông, nâng cao nhận thức và đào tạo nông dân; hỗ trợ phát triển chính sách để tạo thay đổi mang tính hệ thống; đồng thời tìm kiếm cơ hội nhân rộng những mô hình thành công ra các quốc gia khác trong khu vực và thế giới.
Đến nay, nhiều kết quả đáng khích lệ đã được ghi nhận. Tại An Giang, các mô hình tận dụng rơm rạ để trồng nấm, ủ phân hữu cơ hay chế biến thành thức ăn chăn nuôi cho thấy hiệu quả rõ rệt. Các giải pháp sinh học như hỗn hợp vi sinh giúp rút ngắn thời gian phân hủy rơm từ vài tháng xuống chỉ còn 14–15 ngày, vừa bổ sung dinh dưỡng cho đất vừa giảm nhu cầu sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật. Đặc biệt, trồng nấm bằng rơm rạ chứng minh tính khả thi kinh tế: nhiều hộ gia đình ghi nhận thu nhập tăng đáng kể và dần từ bỏ tập quán đốt rơm.
Cùng với đó, các chiến dịch truyền thông và đào tạo cộng đồng đã tiếp cận được hơn 600 người dân tại 6 tỉnh. Ở quy mô quốc tế, 12 quốc gia, trong đó có Indonesia và Bangladesh, được xác định có thể học hỏi và áp dụng mô hình của Việt Nam nhằm đối phó với những thách thức tương tự.
Một minh chứng rõ nét đến từ Đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây, việc sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý rơm rạ không chỉ giúp cải thiện độ màu mỡ của đất mà còn mang lại thêm lợi nhuận trung bình 4 triệu đồng mỗi hecta. Trường hợp ông Nguyễn Thanh Hà, một nông dân ở An Giang, là ví dụ tiêu biểu. Trước kia ông thường xuyên đốt rơm sau mỗi vụ thu hoạch, nhưng sau khi được đào tạo, ông đã mạnh dạn đầu tư hơn 200 triệu đồng để xây dựng tám nhà kính trồng nấm, một phần chi phí được hỗ trợ từ chương trình. Hiện mỗi tháng ông thu về khoảng 24 triệu đồng, gấp đôi thu nhập từ trồng lúa truyền thống. “Ban đầu chúng tôi còn nghi ngại, nhưng khi thấy hiệu quả và lợi nhuận rõ ràng, bà con đã thay đổi suy nghĩ. Giờ đây rơm rạ không còn là thứ bỏ đi mà trở thành nguồn lợi quý giá”, ông Hà chia sẻ.
Thành công của ông Hà là một trong số hàng ngàn người tham gia dự án từ Bắc chí Nam phản ánh đúng tinh thần mà EPP theo đuổi: kết nối khoa học và phương pháp tiên tiến với nhu cầu thực tiễn địa phương, thúc đẩy sự hợp tác và niềm tin để tạo ra những thay đổi bền vững. Khi thấy lợi ích trực tiếp, người nông dân không chỉ chấp nhận mà còn chủ động nhân rộng giải pháp.
Để lan tỏa những kết quả bước đầu, tháng 11/2024, GAHP đã tổ chức Hội nghị EPP-VN tại Hà Nội, quy tụ đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và nông dân từ nhiều địa phương. Hội nghị ghi nhận những tiến bộ mà Việt Nam đạt được và thảo luận về khả năng nhân rộng sang các quốc gia khác ở châu Á và châu Phi như Bangladesh, Myanmar, Philippines. Nhiều đại biểu quốc tế đánh giá mô hình Việt Nam là kinh nghiệm quý báu để áp dụng trong bối cảnh toàn cầu đang phải đối diện với những thách thức ô nhiễm tương tự.
Bà Maria Paola Lia, Giám đốc Điều hành GAHP, cho biết: “Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với bảo vệ môi trường thông qua việc thực hiện các chính sách quốc gia và tham gia tích cực vào các chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc. Đồng hành cùng những nỗ lực này, Liên minh Toàn cầu về Sức khỏe và Ô nhiễm (GAHP) hỗ trợ các ưu tiên của chính phủ bằng cách thúc đẩy các hoạt động bền vững, mang lại lợi ích cho cả chất lượng môi trường và sức khỏe cộng đồng. Chúng tôi xin cảm ơn Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn Anh (DEFRA) đã tài trợ và hợp tác với chúng tôi trong sáng kiến quan trọng này” Theo đó, Việt Nam đang ưu tiên các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia, vì vậy chúng tôi hy vọng rằng các tư vấn kỹ thuật và giải pháp thay thế cho việc đốt nương rẫy có thể góp phần giúp Việt Nam sớm đạt được các mục tiêu này.
Có thể thấy, EPP-VN không chỉ nhằm giảm thiểu những rủi ro trước mắt về môi trường và sức khỏe, mà còn góp phần đặt nền móng cho một nền nông nghiệp có khả năng phục hồi, thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu. Với sự hỗ trợ phù hợp, canh tác bền vững ở Việt Nam hoàn toàn khả thi và thậm chí trở thành lựa chọn được ưa chuộng của nông dân. Kết quả của chương trình cũng mở ra cơ hội hợp tác quốc tế, tạo ra mạng lưới các quốc gia cùng hướng đến mục tiêu chung là phát triển nông nghiệp xanh, sạch và bền vững.
Những nỗ lực của VACNE và GAHP, dưới sự đồng hành của Chính phủ và cộng đồng, đang góp phần khẳng định rằng Việt Nam có thể trở thành hình mẫu trong việc dung hòa mục tiêu phát triển nông nghiệp với bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đây chính là hướng đi tất yếu để ngành nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển ổn định, hiệu quả và bền vững trong tương lai.