Hạ tầng nâng tầm cuộc sống, sinh kế 'mở lối' cho mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Quảng Ngãi
Trong giai đoạn 2021–2025, tỉnh Quảng Ngãi (hợp nhất 2 tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum) đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Những kết quả này đã thể hiện sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đồng thời ghi nhận sự thay đổi tích cực trong nhận thức, tư duy của người dân về tự lực vươn lên thoát nghèo.
Hạ tầng nâng tầm cuộc sống
Ông AByot - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cho biết: Điểm nhấn ấn tượng nhất của Chương trình là tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021–2025 giảm nhanh và vượt kế hoạch. Dự kiến đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo còn 1,86% (tương ứng 10.458 hộ), giảm 8,89% so với đầu giai đoạn; bình quân mỗi năm giảm 2,17%.
Kết quả này phản ánh nỗ lực đồng bộ của các cấp, các ngành cũng như tính hiệu quả của nhiều chính sách hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, phát triển hạ tầng và nâng cao năng lực cho người nghèo.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đã tạo dấu ấn quan trọng trong đầu tư hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Nhiều công trình như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, hệ thống nước sinh hoạt… được đầu tư đồng bộ, giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản.
Ông AByot cho biết thêm, tỉnh Quảng Ngãi đã hỗ trợ triển khai và nhân rộng hơn 798 mô hình giảm nghèo và dự án phát triển sản xuất, tạo sinh kế bền vững cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo.

Nhiều mô hình mang lại hiệu quả cao như: Trồng cau, ổi, bơ, nghệ, gừng, dừa xiêm; Trồng mắc ca và cây dược liệu (hồng đẳng sâm, sâm Ngọc Linh); Chăn nuôi bò sinh sản, bò vỗ béo; Chăn nuôi heo, gà theo hướng an toàn sinh học.
Tùy theo đặc điểm từng vùng, các địa phương đã lựa chọn mô hình phù hợp: Vùng phía Đông tập trung chăn nuôi bò sinh sản và bò vỗ béo; Vùng phía Tây, đặc biệt các xã phía Đông Trường Sơn, phát triển mạnh cây dược liệu và cà phê arabica; Các xã còn lại ưu tiên mô hình cây ăn quả giá trị cao như sầu riêng, ca cao, chanh dây, chuối xuất khẩu, mít, bơ; đồng thời mở rộng mô hình trang trại nông – lâm kết hợp.
Những mô hình này đã góp phần gia tăng thu nhập, giảm phụ thuộc vào hỗ trợ nhà nước và thúc đẩy tư duy sản xuất chủ động của người dân.

Cùng với hỗ trợ sinh kế, tỉnh chú trọng công tác đào tạo nghề, chuyển giao kỹ thuật và tạo việc làm. Nhờ đó, nhiều lao động nghèo có cơ hội nâng cao tay nghề, tìm việc làm ổn định trong các doanh nghiệp hoặc tự tạo việc làm tại địa phương. Đây được xem là giải pháp căn cơ giúp hạn chế tái nghèo và tạo bước chuyển tích cực trong đời sống của người dân.
Sinh kế chủ động, thu nhập bền vững
Ông AByot cho biết, một trong những kết quả quan trọng của giai đoạn 2021–2025 là sự thay đổi trong nhận thức của cộng đồng. Giảm nghèo không còn được hiểu là hỗ trợ “cho không” mà là quá trình “trao cơ hội, khơi dậy nội lực”. Tinh thần chủ động vươn lên, mạnh dạn tiếp cận khoa học kỹ thuật, dám vay vốn sản xuất đã lan tỏa ngày càng rộng.
Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, việc triển khai Chương trình vẫn gặp không ít thách thức. Đối với các xã miền núi có địa hình phức tạp, nhu cầu đầu tư lớn trong khi khả năng huy động nguồn lực ngoài ngân sách còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.

Đội ngũ cán bộ giảm nghèo cấp xã phần lớn kiêm nhiệm, thay đổi thường xuyên; năng lực còn hạn chế khiến việc tham mưu và cập nhật báo cáo theo chuẩn nghèo đa chiều gặp khó khăn.
Một bộ phận hộ nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, còn sản xuất theo phương thức truyền thống, ít áp dụng tiến bộ kỹ thuật; chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất.
Địa bàn rộng, giao thông khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa bão, gây trở ngại cho việc triển khai và giám sát các mô hình sinh kế.

Trong giai đoạn đầu (2021–2022), nhiều chính sách hướng dẫn từ Trung ương được ban hành chậm, một số nội dung phải điều chỉnh vào năm 2023 như chính sách giáo dục nghề nghiệp và cải thiện dinh dưỡng, khiến địa phương thiếu tính chủ động.
Việc quy định chặt chẽ tiêu chí, định mức vốn cho từng dự án khiến nguồn lực bị dàn trải; địa phương khó điều chỉnh theo nhu cầu thực tế và mức độ cấp thiết của từng vùng.
“Với kết quả đã đạt được, nhiều mô hình sản xuất, mô hình sinh kế của Quảng Ngãi đang có điều kiện lan tỏa và nhân rộng trong thời gian tới. Việc tiếp tục đầu tư hạ tầng, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở, đa dạng hóa sinh kế, đẩy mạnh đào tạo nghề và hoàn thiện cơ chế sẽ là những giải pháp quan trọng để tỉnh Quảng Ngãi thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống cho người dân...”, ông AByot - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi.
Nông dân tất bật xuống đồng, 'gọi' Tết về trên những luống hoa
Nông nghiệpNhững ngày này, trên khắp những vùng hoa truyền thống của Đà Nẵng như Dương Sơn, Gò Giảng hay Hà Đông, không khí sản xuất hoa Tết đã rộn ràng hơn bao giờ hết. Hàng loạt vườn hoa, cây cảnh được xuống giống, chăm sóc kỹ lưỡng để kịp cung ứng thị trường cuối năm, tất cả báo hiệu một vụ hoa Tết Bính Ngọ 2026 đang đến rất gần.
Đây là những đặc sản của Quảng Ngãi dự kiến không thể “vắng mặt” tại Hội chợ mùa Thu 2025
Nông nghiệpTỏi Lý Sơn; sâm Ngọc linh và sản phẩm từ sâm Ngọc linh….được dự kiến là những đặc sản không thể “vắng mặt” ở gian hàng của Quảng Ngãi tại Hội chợ Mùa Thu 2025, được tổ chức tại TP.Hà Nội
Tự làm phân bón, nông dân Quảng Ngãi giảm 50% chi phí, lợi nhuận gần 300 triệu/năm
Nông nghiệpTại vùng đất cao nguyên Quảng Ngãi, nông dân đang viết nên câu chuyện "biến rác thành vàng" đầy cảm hứng. Từ những phế phẩm như cá tạp dưới lòng hồ thủy điện Ya Ly hay vỏ cà phê, vỏ trấu, họ đã tự tay tạo ra nguồn phân bón hữu cơ chất lượng cao. Sáng kiến này không chỉ giúp giảm tới 50% chi phí sản xuất mà còn cải tạo đất, tăng năng suất và tạo ra nông sản sạch, mở ra hướng đi làm giàu bền vững.











