Làng rau Thanh Đông 'kể chuyện' bằng màu xanh và triết lý sản xuất nông nghiệp '4 không' thuận thiên
Nằm bên dòng Thu Bồn hiền hòa, làng rau Thanh Đông ở phường Hội An Đông, thành phố Đà Nẵng (trước đây thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam cũ) từ lâu được biết đến như một trong những mô hình nông nghiệp thuận thiên đặc trưng của miền Trung. Trên mảnh đất rộng hơn một héc-ta, những người nông dân nơi đây đã chọn cách trở về với lối canh tác truyền thống – một hành trình khó khăn nhưng đầy nhân văn, để trả lại sự màu mỡ cho đất, sự an toàn cho bữa ăn và sự bền vững cho quê hương.
Hồi sinh đất từ “4 không”
Ở Thanh Đông, triết lý “4 không” đã trở thành “kim chỉ nam” cho mọi mùa vụ: Không hóa chất, không giống biến đổi gen, không thuốc bảo vệ thực vật, không chất kích thích tăng trưởng.
Những điều tưởng như giản đơn ấy lại là cả cuộc thay đổi lớn đối với người nông dân từng quen với việc một tay bón phân, một tay phun thuốc để đảm bảo năng suất.

Bà Đinh Thị Xinh – một trong những hộ đầu tiên tham gia sản xuất hữu cơ vẫn nhớ rõ cảm giác ngần ngại thuở ban đầu. Gia đình bà chỉ có 500 m² đất, lại chưa từng làm rau theo cách “không dùng gì ngoài tự nhiên”. Khi thấy rau bị sâu, bà con quanh vùng thường chạy ngay ra chợ mua thuốc về phun, vừa nhanh vừa “đỡ lo thất thu”. Vậy nên khi nghe nói chuyển sang làm hữu cơ, ai cũng lắc đầu: “Cực lắm, không làm nổi đâu!”.
Thế nhưng chính những ngày phải mang bình thuốc nặng trên vai, hít mùi hóa chất đến tức ngực, nhiều đêm mất ngủ vì ho, mới khiến người dân giật mình. Họ nhận ra nếu tiếp tục canh tác theo lối cũ thì sức khỏe sẽ là thứ trả giá trước tiên. Và từ sự lo lắng ấy, hành trình mới bắt đầu.

Năm 2013, nhờ sự hỗ trợ của chính quyền và tổ chức phi chính phủ về phát triển đô thị, bà con được các kỹ sư nông nghiệp “cầm tay chỉ việc”. 11 hộ dân đã học cách tự làm phân bón hữu cơ gồm 50% phế phẩm lá cây, rau bỏ đi, 30% phân trâu bò cùng 20% những phụ chất như phân trùn quế, bánh dầu (bã đậu phộng sau khi ép), tập quen bắt sâu bằng tay, loay hoay pha chế thuốc sinh học từ thảo mộc. Từ những ngày vụng về ấy, dần dần những mẻ rau hữu cơ đầu tiên đã cho thu hoạch.
Từ những luống rau nhỏ bé ban đầu, một khu vườn hữu cơ đúng nghĩa dần hình thành, mở ra một hướng đi mới cho cả cộng đồng.
Đi giữa vườn rau Thanh Đông, điều khiến du khách thích thú không chỉ là màu xanh mướt mà còn là những dải hoa rực rỡ được trồng xen kẽ. Hoa màu hồng để dụ bướm về đẻ trứng, hoa màu đỏ thu hút bọ nhảy, còn những bụi húng quế, sả lại có nhiệm vụ đuổi côn trùng. Một hệ sinh thái thu nhỏ được tạo ra từ chính bàn tay người nông dân – nơi sâu bệnh được kiểm soát bằng tự nhiên chứ không bằng hóa chất.

Trong một cơn mưa nhẹ do ảnh hưởng bão số 10, bà Xinh lúi húi che những mầm rau còn non. Dưới mái áo nâu sẫm, bà vừa làm vừa chia sẻ với khách tham quan về triết lý làm nông thuận thiên của người Thanh Đông. Giọng bà dung dị nhưng đầy tự hào: “Rau an toàn là nhờ mình thương đất, thương cây, chứ không phải nhờ thuốc men gì hết”.
Những câu chuyện ấy, xen giữa tiếng mưa lộp độp trên lá, khiến ai đến cũng thấy gần gũi và xúc động. Rau ở Thanh Đông không chỉ là sản phẩm, mà còn là kết tinh của tình yêu đất, sự kiên nhẫn và niềm tin vào phương thức canh tác tự nhiên.
Khi làng rau trở thành “làng du lịch”
Ông Lê Nhương – Giám đốc Hợp tác xã rau hữu cơ và du lịch Thanh Đông cho biết: Làm nông nghiệp thuận thiên là làm theo cách “khó hơn nhưng đúng hơn”. Nếu sản xuất thông thường chỉ cần rải phân, phun thuốc là xong, thì với rau hữu cơ, mỗi ngày người nông dân dành ít nhất bốn tiếng ngoài ruộng để bắt sâu, nhổ cỏ, chăm từng luống đất.
Hạt giống cũng phải chọn lọc kỹ, không phải giống nào cũng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và hoàn toàn không được biến đổi gen. Việc thử nghiệm giống mới đôi khi thất bại tới 20% là chuyện bình thường. Thêm vào đó, sâu bệnh, thời tiết và rủi ro luôn rình rập.

Dù vậy, niềm vui lớn nhất của họ lại không nằm ở sản lượng, mà ở sự thay đổi của đất. Mảnh đất từng chai cứng vì phân hóa học nay trở nên tơi xốp, đầy giun, giữ nước tốt và giàu dinh dưỡng. Cũng chính từ sự hồi sinh của đất mà cây trồng khoẻ mạnh hơn, sản phẩm sạch và đậm vị tự nhiên hơn.
Để đảm bảo chất lượng và tính minh bạch, các cơ quan chuyên môn như Phòng Kinh tế, Trung tâm Khuyến nông, Hội Nông dân thành phố Đà Nẵng thường xuyên kiểm tra đột xuất để ghi nhật ký đồng ruộng, lấy mẫu sản phẩm, đo các chỉ tiêu an toàn. Từ khi thành lập đến nay, toàn bộ sản phẩm của hợp tác xã được sản xuất theo bộ tiêu chuẩn PGS Việt Nam – một mô hình giám sát cộng đồng nghiêm ngặt dành cho nông nghiệp hữu cơ.
Đặc biệt, định kỳ từ ngày 3 đến ngày 6 hàng tháng, hàm lượng nitrat trong đất được kiểm tra. Nếu vượt ngưỡng cho phép, rau trồng trên luống đất đó buộc phải dừng xuất bán. “Hơn 45% nitrat là không an toàn, mình làm hữu cơ thì càng phải theo dõi sát để bảo vệ người tiêu dùng”, ông Nhương khẳng định.
Những năm gần đây, Thanh Đông không chỉ cung cấp rau sạch cho địa phương mà còn trở thành điểm đến du lịch – giáo dục trải nghiệm được ưa thích. Mỗi tháng, làng rau đón từ 6.000 đến 7.000 lượt khách, gồm sinh viên, học sinh, du khách trong và ngoài nước.
Đến đây, du khách không chỉ được đi giữa những luống rau xanh mướt mà còn được nghe câu chuyện đời của người nông dân: chuyện đổi thay phương thức canh tác, chuyện giữ gìn nếp làng, chuyện mùi đất và màu xanh. Họ có thể trực tiếp bắt sâu, gieo hạt, trồng cây, rồi thưởng thức bữa ăn dân dã chế biến từ chính nguyên liệu trong vườn.
Nhờ mô hình này, thu nhập của bà con được cải thiện đáng kể. Dù mỗi tháng chỉ thu nhập từ 5–7 triệu đồng, chưa cao so với nhiều ngành nghề khác nhưng so với trồng lúa trước đây đã khấm khá hơn nhiều. Quan trọng hơn, họ được sống khỏe, sống vui và tự hào về những gì mình làm ra.

Những buổi chiều sau giờ làm, cả làng lại tụm lại bên nhau, kể chuyện, trao đổi kinh nghiệm, tiếng cười hòa cùng mùi đất thơm ngái. Đó cũng là một “giá trị hữu cơ” mà không thể đo đếm bằng tiền.
Câu chuyện của làng rau Thanh Đông không chỉ là chuyện canh tác, mà còn là chuyện giữ gìn văn hóa nông nghiệp truyền thống. Từng luống rau, từng thảm hoa, từng bàn tay gầy gò của người nông dân đều góp phần tạo nên một “làng kể chuyện”, nơi triết lý thuận thiên được thể hiện bằng màu xanh và sự bình dị.
Với người Thanh Đông, nghề nông không chỉ là sinh kế mà còn là di sản. Họ tin rằng bảo vệ đất hôm nay là bảo vệ tương lai cho con cháu mai sau. Và trong từng mùa rau mới, niềm tin ấy lại được bồi đắp.
Làng rau Thanh Đông vì thế trở thành biểu tượng của một lối sống bền vững. Đó là sống chậm, sống xanh và sống cùng thiên nhiên. Một làng quê nhỏ, nhưng câu chuyện họ kể lại là câu chuyện lớn về sự lựa chọn con đường đúng đắn giữa thời đại mà hóa chất và công nghệ cao dường như chiếm ưu thế.
Người dân vùng Lìa cùng nhau gìn giữ “Báu vật trời cho”
Sống xanh(Tapchinongthonmoi.vn) - Vùng Lìa, huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị từ xưa đã là “lãnh địa” của vô vàn loại gỗ quý, đặc biệt là giáng hương, hiện loài cây này vẫn còn ở khắp nơi, đến nổi người dân cứ bước ra khỏi nhà là bắt gặp.
Hữu Lũng tích cực hưởng ứng Tết trồng cây Giáp Thìn 2024
Sống xanh(Tapchinongthonmoi.vn) - Cứ mỗi độ Xuân về, “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ”, lại được các cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện Hữu Lũng (tỉnh Lạng Sơn) hưởng ứng tích cực, qua đó vừa thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa mang lại nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao nhận thức bảo vệ rừng, môi trường sinh thái, nâng cao độ che phủ rừng.
“Một triệu bữa cơm có thịt” - ấm áp những tấm lòng sẻ chia với trẻ em vùng cao
Sống xanh(Tapchinongthonmoi.vn) Để đảm bảo tỉ lệ đi học chuyên cần của học sinh vùng cao, ngoài nỗ lực giáo dục, vận động, còn cần có sự khích lệ, động viên thiết thực cho các em từ những điều giản dị nhất như những bữa cơm có thịt, đầy đủ dưỡng chất.











